TÚ DUYÊN :: THỦ ẤN HỌA

A dedicated website has been launched by a fan. Created to highlight the work of woodblock printmaking, an art form and prints of highest artistic stage by Vietnamese artist Tu-Duyen!

“…Thủ ấn họa đã tạo nên những bức tranh tuyệt mỹ khiến người coi cảm thấy có những sắc màu riêng biệt thích hợp với tâm trạng từng lúc, từng khi. Cái đó là do theo nguồn cảm hứng của họa sĩ tạo nên. Họa sĩ ấy là ai? Là TÚ DUYÊN vậy…”

Monday, October 20, 2008

HỌA SĨ TÚ DUYÊN

Trần Bình Trọng: Thà làm quỷ nước
Nam hơn làm vương đất Bắc
Tú Duyên là tên ông mà lâu nay chúng ta vẫn thường nghe tiếng gắn liền với những chữ Thủ ấn họa trên các báo, các tạp chí trong nước và nhiều nhất ở miền Nam kể cả những báo nước ngoài ở Bỉ, ở Pháp đã đăng về sáng tạo của ông. ông sinh tại làng Bát Tràng, Gia Lâm, thành phố Hà Nội. ông cụ thân sinh chuyên làm đồ gốm: Năm 1935 ông là học trò của cụ Nam Sơn, một giáo sư có tiếng của trường mỹ thuật Đông Dương, đã tốt nghiệp trường Mỹ thuật Pháp. Các bạn cùng học chung với Tú Duyên có Sỹ Ngọc, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Thị Kim, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Văn Tỵ v.v... có thể nói số học trò của cụ Nam Sơn lên đến trên 100 người và đa số đều đã thành đạt trên con đường phục vụ nghệ thuật.

Thuở ấy vào năm kinh tế khủng hoảng 1938, các họa sĩ không có màu để vẽ, nên thường vẽ bằng bút chì, than, sanguine ...Ngay như Nguyễn Gia Trí một sinh viên xuất sắc nhất của nhà trường cũng đã phải dùng giấy màu để thử nghiệm các bố cục sau khi thể hiện lên sơn mài... Tú Duyên may mắn hơn, năm 1940 được một nhà may có tiếng tại Hà Thành đã thuê ông vẽ kiểu áo và chuyên vẽ đăng ten, nói rõ hơn đó là những trang trí dùng trên cổ áo, tay áo hoặc túi áo v.v... Cuộc sống của ông cũng tương đối khá hơn một số họa sĩ khác.

Tại sao lại gọi là Thủ ấn họa Tú Duyên, từ những năm đầu tiên của nhà trường đã có môn học khắc gỗ từ năm 1925, cho đến sau này nhà trường đã gom góp một số lớn tranh mộc khắc của các sinh viên để làm tư liệu cho nhà trường. Các sinh viên như Tô Ngọc Vân, Lương Xuân Nhị, Đỗ Đức Thuận, Vũ Đăng Bốn, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Trần Bình Lộc, Nguyễn Thị Kim, Trần Đình Thọ, Phan Kế An, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm và nhiều sinh viên khác trong đó có khắc gỗ của Tú Duyên với tựa đề “Trần Đình Trọng, thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm Vương đất Bắc”. Mãi đến năm 1997 nhà xuất bản mỹ thuật mới cho ra đời cuốn sách tựa đề “Tranh khắc gỗ Việt Nam” kèm theo tiếng Anh là Vietnamese contemporary/wood engraving. Tú Duyên đã có sáng kiến phát triển tranh khắc gỗ thay vì bảng vẽ bốn màu phải thể hiện bốn bản khắc, ông chỉ làm một hoặc hai bản mà thôi. Trong khi các họa sĩ khác lấy cọ phết màu hay lăn màu lên bản gỗ thì ông lại dùng tay của mình chấm màu và xoa lên bảng gỗ sau đó in trên lụa hoặc giấy dó. Kết quả màu sắc của các bảng vẽ có khi khác nhau và tạo cho một vẻ đẹp khác thường và ông cho nó một tên có vẻ chuyên môn là thủ ấn họa (in bằng tay). Ông nhắc lại hồi còn đi học anh em thấy ông hiền và chịu khó nên hay nhờ ông đánh giấy nhám cho bảng gỗ thật mịn và bằng phẳng để đến khi khắc các nét được lộ ra trọn vẹn. Từ công việc đó đã tạo cho ông một sự cần mẫn trong việc khoét gỗ, rạch gỗ để làm tranh.

Khi phát xít Nhật dự định xâm chiếm Đông Dương nên đã xảy ra những lục đục, gây hấn giữa Pháp và Nhật. ông đã cùng vợ vào Sài Gòn, “nơi đất mới” để sinh sống. Cùng đi với ông có vài họa sĩ như Tiến Lợi và Nguyễn Phú Sơn. Tại đường Gia Long ông đã mở phòng quảng cáo để vẽ bảng hiệu. Lần triển lãm đầu tiên của Tú Duyên tại phòng triển lãm Pháp Văn Đồng Minh Hội đường Gia Long tôi và họa sĩ Nhan Chí nổi tiếng về vẽ phấn tiên (pastels) đã tới dự hôm khai mạc. Nhan Chí là bạn thân của ông từ ngoài Bắc khi Nhan Chí và Lê Trung ra Hà Nội học vẽ. Do đó sau triển lãm chúng tôi thường gặp gỡ nhau để chén trà chén rượu. Từ chỗ ở Gia Long ông chuyển qua đường Reims sau đó dừng lại tại 161 Nguyễn Công Trứ, quận 1 cho đến bây giờ. Nhan Chí vẽ chân dung cho người Pháp nên có tiền nhiều. ông thường rủ tôi đến Tú Duyên nhậu tại nhà hàng người Hoa ở ngã tư Pasteur và Nguyễn Công Trứ. Do đó tôi lại được biết thêm Tú Duyên có nhiều thân chủ thích lối thủ ấn họa của ông. Vua dầu lửa người Mỹ Rocque Feller và vua Sihanouk đã mua một số tranh thủ ấn họa của ông để bày tại bảo tàng riêng của nhà họ và tại bảo tàng Hoàng Gia Kampuchia.

Cuối năm 1945, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, để chống âm mưu xâm lược của bọn thực dân Pháp manh tâm cai trị nước ta lần thứ 2. Tú Duyên lên đường tòng quân. Ông được phân công ở văn hóa thông tin của khu 7, trong đó có cả họa sĩ Trần Văn Lấm. Năm 1954 khi tôi được về họat động tại thành phố Sài Gòn Chợ Lớn chung với Phạm Ngọc Thảo, tôi đã trịnh trọng khoác áo đại biểu văn hóa toàn quốc và vào Dinh độc lập dự tiệc tôi cũng lại gặp Tú Duyên. Trong năm 1956, Miền Nam có một hội chợ rất lớn gọi là Hội chợ triển lãm và giải trí toàn quốc. Tôi lại gặp ông, khi ấy ông trịnh trọng bộ com lê làm ủy viên giám khảo để tuyển lựa tranh trưng bày trong phòng triển lãm của hội chợ này. Sau này ông thường xuyên phụ trách giám khảo các cuộc triển lãm trong nước và tuyển tranh đi tham dự các triển lãm Quốc tế.

Sau 6 năm giải phóng miền Nam, hoạt động của các họa sĩ trở lại bình thường. Tranh của ông vẫn được các thân chủ là kiều bào ở úc, ở Canađa, ở Pháp v.v.. thường đến mua tranh của ông để chuyển ra nước ngoài. Đời sống của ông cũng có điều kiện phát triển thêm lên về mặt mỹ thuật. Năm 1998 ông đã tham dự cuộc triển lãm quy mô tại Bruxelle thủ đô nước Bỉ. Triển lãm này gồm trên 200 tác phẩm của các họa sĩ danh tiếng Việt Nam trong đó có ông. Thường thường vài năm tôi từ Cần Thơ ra Hà Nội lại ghé thăm ông để kể chuyện trên trời, dưới đất, hớp vài cốc rượu bia hoặc rượu thuốc gọi là gây cho ông một vài phút giây thư giãn.

Bảy năm trước đây ông hay đi bộ trên một cây số ra bến đò Thủ Thiêm bên bờ sông Sài Gòn để gặp bất cứ nhân vật nào ông vẽ. Thường thường ông vẽ các em bé và các ông già. Có khi người ta muốn trả tiền công để xin ông vẽ cho nhưng ông lắc đầu và vẽ để tặng họ thôi. Cũng có khi ông đi xa hơn hai cây số lại trước dinh Gia Long để vẽ những rễ cây đa to, nhằng nhịt và ông rất thích thú vì cái nhằng nhịt ấy nó có vẻ đẹp riêng của nó. Những người sống ở bến tàu đã quen hễ cứ 4 giờ chiều khi nắng còn rơi rớt trên ngọn cây là ông đã có mặt tại bến tàu ở dưới những tàng cây công viên hay là nếu trời mưa thì ông vào trú mưa tại nhà cầu bến tàu. Có lẽ những tàng cây tươi mát, những ngọn gió êm dịu mơn man trên người ông, những làn sóng lăn tăn trên bến, những tàng dừa nước bên sông đã quyến rũ ông và không cho phép ông vắng mặt trong mỗi buổi chiều khi nắng còn vàng pha hoặc le lói trên ngọn cây ...

Năm nay đôi mắt ông yếu quá. Tôi bước vào nhà nhìn ông và giả vờ như người lạ. Tôi chào ông nheo mắt hồi lâu và thốt hai tiếng: Vũ Anh đấy à! Tôi tiến lại gần ôm ông để nén cơn cảm xúc.

Tôi đã học nơi người bạn tôi sự siêng năng tìm tòi trong sáng tác và sự nghiêm khắc với mình trong công việc không mệt mỏi. Nếu nhà danh họa Picasso nói một câu bất hủ: “Le génie c’est une longue patience” (Thiên tài là sự cần cù nhẫn nại ) thì Tú Duyên đã vượt qua muôn ngàn khó khăn trong cuộc sống để dựng nên một bộ môn độc đáo trong hội họa hôm nay đó là: Thủ ấn họa Tú Duyên.

(Vũ Anh)

Tuesday, October 14, 2008

TỪ KỸ THUẬT IN MỘC BẢN CỔ TRUYỀN ĐẾN NGHỆ THUẬT "THỦ ẤN HỌA"

Nghề in khắc gỗ ở nước ta đã có từ triều Lý. Năm 1190, thiền sư Tôn Tín Học có nghề gia truyền chuyên khắc ván kinh.

Đời nhà Trần (1298 - 1332) có sư Pháp Loa in kinh Địa Tạng. Cuối đời nhà Trần (1396), Hồ Quý Ly in tiền giấy “Thông bảo hội sao” có vẽ tứ linh, sóng nước, chứng tỏ nghệ thuật in khắc rất cao.

Đến triều Lê Sơ (1443 - 1459) có tiến sĩ Lương Nhữ Học đi sứ Trung Quốc học nghề in khắc, khi về ông truyền lại cho dân hai làng Hồng Lục và Liễu Chàng tỉnh Hải Dương.

Năm 1598, tìm thấy các ván in kinh ở Hội An.

Tranh Đông Hồ, xuất phát từ thợ khắc in bùa chú, vàng mã và sau in khắc tranh dân gian Làng Đông Hồ nằm giáp khu vực chùa Bút Tháp.

Tranh Hàng Trống, đáp ứng cho thị dân được làm trong khu vực phố Hàng Trống, Hàng Quạt, Hàng Hòm (Hà Nội). 

Tranh dân gian làng Sình huyện Phú Vang, ở ven bờ Nam, hạ lưu sông Hương thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế. Đó là loại tranh thờ, cúng lễ… 

So với tranh dân gian miền Bắc, tranh làng Sình có nét giống tranh thờ Hàng Trống và khác hẳn tranh Đông Hồ thường in từ đầu đến cuối, cả nét lẫn màu đều in bằng bản khắc gỗ, tạo cho tờ tranh có vẻ đẹp chân chất, chắc nịch và có chiều sâu của màu “thuốc cái”.

Như vậy có 3 loại in khắc gỗ ở Việt Nam là:
+ In bằng nhiều bản màu (tranh Đông Hồ).
+ In một bản nét, còn tô màu bằng tay (tranh Hàng Trống).
+ In đen trắng hoàn toàn (sách kinh).

Đến năm 1925, trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương ra đời, ngành hội họa ngoài các môn lụa, sơn dầu, sơn mài, còn có khắc gỗ. Các họa sinh tùy thích chuyên ngành nào có thể theo đuổi môn mình chọn để thi cuối khóa.

Hai bức tranh khắc gỗ: “Tiếng đàn đêm trăng” và “Tiếng sáo chiều” của Nguyễn Văn Thịnh (Del) đã chiếm giải khôi nguyên kỳ thi tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

Sau đó nhóm “Tinh Hoa” gồm họa sĩ Mạnh Quỳnh, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Gia Trí, Lưu Văn Sìn, Nguyễn Văn Quế, Nguyễn Văn Tỵ vẫn theo đuổi công việc minh họa cho sách báo bằng tranh khắc.

Đến năm 1942, nhân ngày sinh thứ 100 của thi hào Nguyễn Du, các họa sĩ trên cùng họa sĩ Lê Văn Đệ, Tô Ngọc Vân (Tô Tử) và các họa sĩ khác đã ra tập Văn họa kỷ niệm Nguyễn Du với 11 bản khắc gỗ minh họa truyện Kiều trên giấy dó.

Sau này các họa sĩ U Văn An, Phạm Văn Đôn và Tú Duyên vẫn tiếp tục thể nghiệm các sáng tác ấn mộc bản.

Giữa năm 1953, ấn mộc bản cổ truyền có một bước thay đổi được gọi là “thủ ấn họa” trên lụa mà người sáng tạo không ai khác, đó là họa sĩ Tú Duyên.

Họa sĩ Tú Duyên nguyên là giảng viên trường Mỹ thuật Gia Định, nay đã 90 tuổi và vẫn tiếp tục sáng tác.

Trước khi được đi tu nghiệp tại Nhật Bản, tôi có đến nhà họa sĩ Tú Duyên nhờ hướng dẫn và triển khai kỹ thuật “thủ ấn họa”  trên lụa độc đáo này để giao lưu cùng các đồng nghiệp ở Hiệp hội Ấn họa Nhật Bản và Viện Mỹ thuật Tokyo vào niên khóa 1973 – 1974 và đã được tán thưởng vô cùng.

Không có máy quay phim, nhưng tôi cũng cố gắng chụp bằng phim “slide” từng động tác các công đoạn thực hiện từ A đến Z thật vất vả, nhưng vất vả nhất là họa sĩ Tú Duyên.

Đàn ca
Với sự nhiệt tình đầy ngẫu hứng, họa sĩ Tú Duyên đã không tiếc sức giúp cho tôi thấy và hiểu “thủ ấn họa” qua các thao tác kỹ thuật.  Khác với các loại tranh ấn mộc bản thông thường, chỉ có hai bản khắc gỗ: bản nét và bản màu. Họa sĩ Tú Duyên đã tạo ra các tác phẩm có nhiều độ màu qua kỹ thuật của mình.

Với những đầu ngón tay đầy màu của anh thay cho bút cọ, đã tạo cho sắc màu trên bản gỗ trở thành một bức tranh huyền ảo, một mảnh lụa tơ tằm được đặt lên bản màu, dùng tay vuốt nhẹ và thỉnh thoảng ấn mạnh lòng bàn tay một vài chỗ cần thiết, xong gỡ lụa ra đưa sang bản khắc nét đã vô màu và cũng dùng tay vuốt đều trên mảnh lụa cho đến lúc hoàn chỉnh. Xong nhấc tấm lụa lên đặt trên mặt ván phẳng, xăm xoi và hoàn thiện với triệu son và chữ ký một cách trịnh trọng để hoàn tất tác phẩm này.

Khi đã in xong, chờ khô và bồi lên một tờ giấy bản hay giấy báo trắng lớn đủ để căng dính bốn cạnh lên bản gỗ rộng, lòng biên lụa màu khác nhưng phải hòa hợp với tranh hoặc đậm hay lợt để làm nổi bật tác phẩm. Đấy là “thủ ấn họa” trên lụa của họa sĩ Tú Duyên.

Sau hơn 18 lần triển lãm cá nhân, hàng trăm lần triển lãm chung, các tác phẩm “thủ ấn họa” của anh đã được sưu tập và lưu giữ ở nhiều bảo tàng quốc gia và thế giới.

Riêng ở bảo tàng Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, tác phẩm “Thà làm quỷ nước Nam” với hình tượng Trần Bình Trọng oai phong, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng và bộ tranh “Kim Vân Kiều” của họa sĩ Tú Duyên đã được sưu tập bởi một nhân vật khá nổi tiếng của chính giới cũ với gần 20 tác phẩm.

Tranh “thủ ấn họa” của Tú Duyên rất quen thuộc với đời sống thường ngày qua nguồn cảm hứng của nghệ sĩ bậc thầy.

“Thủ ấn họa” trên lụa là một loại hình độc đáo. Song đến nay, điểm lại dường như anh là người đầu tiên và cũng có thể là người sau cùng. Tiếc thay!

Trước khi dứt lời, tôi xin mượn ý tưởng của nhà báo Văn Quang khi nói về Tú Duyên “Màu sắc các họa phẩm thật biển đổi, mỗi biến đổi một lạ lùng, gây cho người xem không chán mắt. Nét vẽ điêu luyện và yêu đời. Hình ảnh chan hòa sức sống. Có những màu họa sĩ khéo pha tương tự như sơn mài, thuốc nước hay sơn dầu”.

Sau nhiều năm âm thầm lẻ loi làm việc, tranh thủ ấn họa của họa sĩ Tú Duyên đã có một chỗ trong nền hội họa. Đối với người nghệ sĩ chân chính không còn gì quý bằng khi đứa con tinh thần thai nghén được đời công nhận. Với đôi bàn tay khéo léo và năm tháng của mình, Tú Duyên đã đi tìm một cách mới trong diễn đạt tranh khắc, đó là “Thủ ấn họa”.

(Họa sĩ Trương Văn Ý)